Ở các nước đang phát triển, cả hai thành tố này đều quan trọng, mặc dù ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hiện trạng phát triển kinh tế của địa phương, tỷ lệ ứng dụng các công nghệ đang được sử dụng trên phạm vi quốc tế và năng lực đổi mới của các doanh nghiệp hoặc tổ chức nghiên cứu trong nước.
Việc thúc đẩy đổi mới và ứng dụng công nghệ trong một quốc gia liên quan đến một tập hợp các mối quan hệ phức tạp giữa các chủ thể khác nhau. Để thúc đẩy sự liên kết giữa các chủ thể này, nhiều quốc gia đã phát triển Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS) bao gồm cả thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp và đầu tư vào công nghệ và đổi mới. Các mục tiêu chính sách và các lựa chọn chính sách bao gồm:
a) Hỗ trợ phổ biến rộng rãi hơn CNTT-TT đến khu vực tư nhân
Các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể được hưởng lợi rất nhiều từ việc sử dụng CNTT-TT hiện đại trong thực tiễn kinh doanh của mình.Các nhà hoạch định chính sách cần nâng cao nhận thức về lợi thế của CNTT-TT và có các biện pháp cụ thể để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng CNTT-TT. Cách thức mà doanh nhân có thể khai thác các lợi thế khác nhau của CNTT-TT tùy theo ngành công nghiệp, quy mô và định hướng thị trường của doanh nghiệp. Các hình thức, đặc biệt được các doanh nghiệp siêu nhỏ, khai thác CNTT-TT bằng cách sử dụng sáng tạo những cơ hội mà chúng mang lại đôi khi khiến các nhà hoạch định chính sách ngạc nhiên - từ việc áp dụng rộng rãi SMS và sử dụng "airtime" (dung lượng mạng) như một loại tiền tệ cho đến việc sử dụng nhanh chóng các dịch vụ giao dịch di động ở một số quốc gia. Bằng chứng từ nhiều nước đang phát triển chỉ ra rằng, ví dụ, việc sử dụng điện thoại di động ngày càng tăng trong giới doanh nhân nông thôn đang đóng góp tích cực vào tăng trưởng cũng như hiệu quả và phạm vi tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Giờ đây, các doanh nhân có thể thu thập thông tin thị trường trực tiếp từ những nơi xa xôi và trên nhiều thị trường để giúp họ hiểu rõ hơn về các lựa chọn mua và bán nông sản cũng như các hàng hóa và dịch vụ khác. Các nhà hoạch định chính sách có thể hỗ trợ những đổi mới này bằng cách phát triển các nền tảng trực tuyến và dựa trên thiết bị di động để có thông tin thị trường cũng như giá cả kịp thời và phù hợp. Những lựa chọn chính sách liên quan bao gồm các chương trình đào tạo và nâng cao năng lực cho doanh nhân; đưa ra các khuyến khích để ứng dụng CNTT-TT và hiện đại hóa hoạt động kinh doanh; và một môi trường pháp lý hợp lý giúp tăng khả năng chi trả cho CNTT-TT. Ở một số quốc gia, phụ nữ có xu hướng có hiểu biết về CNTT-TT thấp hơn nam giới do trình độ học vấn thấp hơn và chi phí tiếp cận cao. Phụ nữ cũng phải đối mặt với thách thức về cân bằng giữa công việc và cuộc sống và CNTT-TT có thể là một công cụ hữu ích để quản lý thời gian và dễ dàng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Trong một số trường hợp, các nhà hoạch định chính sách đã hỗ trợ xây dựng năng lực và phổ biến các thiết bị như điện thoại di động đến các nhóm cụ thể như phụ nữ hoặc doanh nhân nông thôn.
b) Thúc đẩy mạng lưới liên công ty truyền bá công nghệ và đổi mới
Các cụm công nghiệp cạnh tranh, trong đó các doanh nghiệp được hưởng lợi từ mạng lưới theo chiều ngang (horizontal networks) và sự gần nhau về khoảng cách, có thể giúp tạo ra các cơ hội để doanh nhân khởi nghiệp tiếp cận thị trường mới (bao gồm cả thông qua xuất khẩu), các nguồn lực và có được các kỹ năng cũng như năng lực mới. Việc hình thành các cụm công nghiệp cạnh tranh cũng có thể là một yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các cụm công nghiệp như vậy, trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua chuyên môn hóa, hợp tác giữa các công ty, lan tỏa kiến thức và hợp đồng phụ, là chìa khóa thành công cho nhiều doanh nghiệp ở các nước đang phát triển trong các lĩnh vực như gốm sứ, may mặc, da giày, điện tử, linh kiện ô tô và công nghệ sinh học. Việc thành lập cụm và kết nối mạng có thể giúp các doanh nghiệp địa phương đổi mới và liên tục phát triển; các biện pháp chính sách có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc này, chẳng hạn bằng cách hỗ trợ các công ty có trụ sở tại cụm công nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Năng lực công nghệ của các doanh nghiệp địa phương cũng được nâng cao thông qua các liên kết thương mại và đầu tư theo chiều dọc, các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của các công ty lớn, thường là đa quốc gia. Những công ty lớn này ngày càng tập trung vào năng lực cốt lõi và thuê ngoài các hoạt động không phải cốt lõi, do đó mở ra thị trường mới cho các doanh nghiệp nhỏ hơn. Gia công phần mềm có thể được khuyến khích bằng cách tạo điều kiện cho các mô hình hợp tác kinh doanh phi vốn chủ sở hữu (NEM), chẳng hạn như nhượng quyền và cấp phép. Những liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp nhỏ và vừa địa phương có thể cho phép doanh nghiệp ở các nước đang phát triển nâng cao năng lực quản lý và công nghệ và trở thành một phần của chuỗi sản xuất toàn cầu và tích hợp. Thông thường, các công ty địa phương nhỏ sản xuất các bộ phận hoặc cung cấp dịch vụ cho các công ty lớn, hoặc họ cung cấp các dịch vụ khách hàng liên quan đến sản phẩm của các công ty lớn (sửa chữa, tùy chỉnh). Nhiều công ty cũng hoạt động trên cơ sở giấy phép hoặc nhượng quyền thương mại, đây là một con đường ngày càng quan trọng để khởi nghiệp.
Chính phủ và các cơ quan hỗ trợ khởi nghiệp cần thừa nhận rằng trong nhiều trường hợp, các tổ chức nhỏ và phi chính thức cần được hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực để khắc phục những hạn chế trong hội nhập vào chuỗi giá trị. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế là một thách thức đối với nhiều nhà cung cấp địa phương ở các nước đang phát triển. Các chương trình nâng cấp công nghệ cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật với chi phí thấp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan hệ với các khách hàng quốc tế lớn. Các tiêu chuẩn về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) của các công ty lớn, thường là đa quốc gia, có thể là một rào cản đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nhỏ địa phương. Hỗ trợ để đáp ứng các tiêu chuẩn và kích thích dần dần việc áp dụng tiêu chuẩn như vậy có thể rất quan trọng đối với việc phát triển khởi nghiệp. Các nhà hoạch định chính sách cũng có thể thúc đẩy các nỗ lực trong ngành để chia sẻ thông tin tuân thủ CSR và nếu có thể, khuyến khích các công ty tích hợp các chương trình tuân thủ CSR nhằm giảm số lượng các cuộc đánh giá và thanh tra.
Khi khả thi, các chính phủ có thể xem xét việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về xã hội và môi trường như ISO14000 và ISO26000 trong mua sắm công, hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp địa phương và cho phép lập thời gian biểu thực hiện phù hợp, qua đó giúp các nhà cung cấp địa phương sẵn sàng tham gia vào chuỗi giá trị bền vững. Các chương trình cố vấn tập hợp các nhà cung cấp có kinh nghiệm và thế hệ chủ sở hữu doanh nghiệp tiếp theo có thể giúp trao đổi thông tin và kinh nghiệm, đồng thời cung cấp các biện pháp kích thích thông qua các giải thưởng và trợ cấp.
Chính phủ có thể thúc đẩy các cụm và mạng lưới công nghiệp định hướng xuất khẩu thông qua những chính sách thương mại phù hợp. Ngoài ra, các chính phủ có thể thúc đẩy liên kết kinh doanh giữa những doanh nghiệp lớn và nhỏ bằng cách tạo điều kiện cho các quan hệ đối tác và các chương trình phát triển nhà cung cấp. Trong các chương trình như vậy, các doanh nghiệp lớn phát triển năng lực của các doanh nhân địa phương và các nhà cung cấp địa phương bằng cách cố vấn và chuyển giao công nghệ cho họ. Đổi lại, các doanh nghiệp lớn được tiếp cận mạng lưới nhà cung cấp có thể đáp ứng nhanh chóng và linh hoạt nhu cầu của họ. Điều này làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn và nhỏ như nhau.
c) Xây dựng cầu nối giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan nghiên cứu, trường đại học và khu vực tư nhân
Quá trình đổi mới của một quốc gia ngày càng phụ thuộc vào sự tương tác giữa chính phủ, học viện (tức là các cơ sở giáo dục công và tư nhân, trường đại học và phòng thí nghiệm nghiên cứu) và khu vực tư nhân. Sự tương tác này liên quan đến việc trao đổi thông tin, ý tưởng và công nghệ một cách linh hoạt. Với ít rào cản hơn giữa giới học thuật và khu vực tư nhân, nghiên cứu của trường đại học có thể phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường và có tác động lớn hơn đến nền kinh tế. Các trường đại học cần được khuyến khích để vượt ra khỏi giới hạn của lĩnh vực học thuật và tham gia tích cực vào quá trình đổi mới và phát triển khởi nghiệp bằng cách thúc đẩy thương mại hóa nghiên cứu của họ và tập trung vào nhu cầu thị trường, có thể bao gồm sự thích ứng của công nghệ tiên tiến với yêu cầu của địa phương, hoặc sự phát triển của các giải pháp công nghệ gốc hoặc vì người nghèo. Đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân sẽ ngày càng quan tâm đến việc đào tạo, chia sẻ kiến thức và hợp tác với trường đại học.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho sự tương tác như vậy. Điều này có thể được thực hiện thông qua các sáng kiến khuyến khích sự tham gia của các trường đại học trong việc chuyển giao công nghệ, cung cấp ưu đãi cho những dự án hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa khoa học và công nghệ hoặc phát triển các phòng thí nghiệm nghiên cứu của chính phủ. Các chuyên gia và học giả có thể tiếp cận và thu được kiến thức khi chuyển đến làm việc và học tập tại các trung tâm xuất sắc trong các lĩnh vực của họ. Mạng lưới thể chế địa phương và quan hệ đối tác công-tư cũng là chìa khóa quan trọng để thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Các trung tâm đổi mới tư nhân cũng có thể cung cấp các giải pháp công nghệ linh hoạt và nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu thị trường và liên kết các nhà đổi mới địa phương với các nhà đầu tư thương mại.
d) Hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cao
Một loạt các can thiệp chính sách có thể hỗ trợ đổi mới công nghệ và các công ty công nghệ cao. Các trung tâm công nghệ và vườn ươm thường được tạo ra để thiết lập không gian cho các công ty công nghệ cao theo định hướng tăng trưởng, từ các trung tâm nghiên cứu công nghệ lớn đến các công viên khoa học nhỏ. Các cơ sở này thường cung cấp một loạt các dịch vụ hỗ trợ cốt lõi như cơ sở hạ tầng, tòa nhà văn phòng hoặc không gian làm việc chung cũng như các chương trình phát triển kinh doanh mục tiêu, dịch vụ cố vấn và tư vấn về tiếp cận tài chính hoặc bảo hộ tài sản trí tuệ. Chúng thường nằm gần các trường đại học và viện nghiên cứu để có thể tiếp cận sựtư vấn về công nghệ và các doanh nhân có kiến thức về KH&CN. Có nhiều mô hình ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao khác nhau, từ các dịch vụ chuyên sâu cho một số lượng nhỏ doanh nghiệp đến các dịch vụ ít chuyên sâu hơn cho một số lượng lớn doanh nghiệp. Các cơ sở ươm tạo có thể tập trung vào một lĩnh vực cụ thể, thường là CNTT-TT hoặc tổng quát hơn. Chúng có thể tập trung có chủ ý vào xuất khẩu hoặc phát triển các sản phẩm mới cho thị trường địa phương.
Chính phủ cũng có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giai đoạn đầu thương mại hóa công nghệ cao. Ví dụ, giải thưởng đổi mới công cộng có thể giúp các doanh nhân bắt đầu các dự án công nghệ cao mới. Chính phủ cũng có thể cho phép các nhà nghiên cứu và nhà đổi mới tiếp cận ưu đãi với thông tin sáng chế và bảo hộ bằng sáng chế hiệu quả về chi phí. Bảo hộ an toàn tài sản là điều quan trọng để thuyết phục các bên liên quan chính chuyển công nghệ từ phòng thí nghiệm đến các vườn ươm và công viên khoa học để thương mại hóa.
Nếu các dịch vụ hỗ trợ không theo định hướng thị trường và tập trung vào nhu cầu thực sự của các công ty khởi nghiệp công nghệ cao, chúng khó có thể đạt được kết quả tích cực, mặc dù chi phí thường cao. Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế đang phát triển cho thấy những nỗ lực thúc đẩy các công ty khởi nghiệp công nghệ không nên tập trung vào những vùng biệt lập với cơ sở hạ tầng hạn chế và khan hiếm nguồn nhân lực có kỹ năng. Thay vào đó, các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp tăng trưởng cao nên được đặt gần các trung tâm thương mại, công nghiệp hoặc khoa học, nơi tồn tại rất nhiều cơ hội kinh doanh quan trọng và việc mở rộng hoạt động kinh tế đang diễn ra theo cách thức cạnh tranh. Ở nhiều nền kinh tế châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan, các trung tâm khoa học và vườn ươm tập trung vào việc xây dựng năng lực của các nhà cung cấp địa phương. Các nhà hoạch định chính sách cũng có thể muốn khám phá các phương án liên kết với các trung tâm và cụm hiện có, cũng như với các chuyên gia khoa học và học giả hàng đầu trên thế giới, vì đổi mới thường diễn ra ở cấp độ quốc gia.
Khi quyết định xem các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao có khả thi hay không và là công cụ thích hợp nhất trong hoàn cảnh địa phương, các nhà hoạch định chính sách cần tập trung vào một số câu hỏi quan trọng như cung cấp dịch vụ gì, có hay không và làm thế nào để hỗ trợ các công ty ngoài các dịch vụ cơ sở cơ bản (và dựa trên những tiêu chí nào), và cách thiết lập cơ cấu quản trị của cơ sở.
Ở một số cơ sở ươm tạo, các dịch vụ cố vấn được cung cấp thường xuyên miễn phí bởi các doanh nhân thành đạt muốn chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác. Các vườn ươm doanh nghiệp trên thế giới có nhiều kiểu cấu trúc quản trị khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy rằng, ở giai đoạn khởi đầu, nhiều sáng kiến thành công phụ thuộc vào sự hỗ trợ kỹ thuật từ nguồn vốn của các nhà tài trợ, quan hệ đối tác công tư giữa chính quyền địa phương và một số "khách hàng thuê cố định". Đây là những nhà đầu tư lớn, có uy tín và ảnh hưởng rộng đến các nhà đầu tư khác trong việc lập cơ sở sản xuất kinh doanh trong vườn ươm và tạo ra nhiều công ty khởi nghiệp hơn nữa thông qua các công ty con hoặc các mối quan hệ hợp đồng phụ./.
Cục Thông tin KH&CN Quốc gia – Bộ KH &CN - Bản tin "Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo", Số 34.2021 (ntbtra)
Ý kiến bạn đọc